TÂM THỨC
NGƯỜI LÍNH NHẨY DÙ
TRONG CƠI VÔ SẮC
(Người Lính Nhẩy
Dù Với Chiều Kích Tâm Linh)
Mũ Đỏ Trương Văn Út (ÚtBạchLan)
(Tạp Chí Xây
Dựng – Năm Thứ 32 – Số 806 – Phát hành ngày 7-3-2015)
Chập chờn
trong giấc ngủ mỏi mệt gần như kiệt
sức, tôi trở ḿnh xoay qua phải, tay trái gác lên xác Minh đă được gói
ghém cẩn thận trong lớp poncho ướt đẫm
sương khuya. Chiều nay, trước khi đặt xác
Minh vào chiếc quan tài bằng nylon dă chiến này, tôi đă
khấn nguyện như thầm nhủ với em: Thôi em hăy đi…
đi...vào cơi siêu thoát , chớ
vương vấn chi chi
những hệ luỵ của kiếp người phù du
trong cuộc đời vô thường như ảo
mộng nầy”
và vuốt đôi mắt mở trừng tới lần
thứ ba, Minh mới chịu nhắm mắt!
Minh tŕnh diện tôi
cuối năm 1968 với cấp bậc Hạ Sĩ
Truyền Tin, nhân tướng cao dong dơng với khuôn mặt
đẹp trai dáng vẻ thư sinh, tài tử phim ảnh
hơn là một “Lính Nhẩy Dù” gan lỳ dũng mănh mà gót
giầy Saut dẫm nát trên 4 vùng chiến thuật với
những chiến trận khốc liệt tử sinh không
biết ngày mai ai c̣n ai mất? Với tính t́nh vui vẻ hoà
đồng với mọi người, nhưng khi lâm
trận th́ can đảm, lỳ lợm không thua kém một
ai trong đơn vị. Chỉ một năm sau, Minh
được thăng cấp Trung Sĩ và tôi gửi Minh
đi học khóa Truyền Tin đặc biệt về
Mật m-Mă, sau khóa học Minh
trở về đơn vị, được
thăng cấp Trung Sĩ Nhất và đuợc tôi bổ
nhiệm chức vụ Trưởng Ban Truyền Tin
của Đại Đội 2 Trinh Sát Nhẩy Dù.
Trong nhiệm
vụ này, Minh lúc nào cũng thường kề cận sát
bên cạnh tôi như h́nh với bóng, và theo
thời gian binh lửa ngút ngàn. Dần dần
tôi thương mến Minh như em ruột của ḿnh.
Minh c̣n độc thân, chỉ có một mẹ già và một
đứa em gái nhỏ đang buôn bán tảo tần ở
chợ Trương Minh Giảng. Minh rất giàu đầu
óc sáng tạo, tự “chế tác” ra những mật mă
Truyền Tin nguỵ hoá
để xử dụng hiệu quả mà ngay Nha
Kỹ Thuật cũng không mă hoá được, huống
hồ mấy tên cán ngố “sinh Bắc tử Nam” có thể
phát hiện được qua âm thoại trên tầng sóng
điện máy truyền tin. Đụng trận, Minh hét lên
trong máy báo cáo liên lạc: “… ba lẽ tám bẩy không chín tám
mười hai ba ba ba...” (giải mật mă là): 2 toán
viển thám: 1 và 2 xuống chân
đồi, 2 trung đội Trinh Sát theo
sau và tấn công bộc hậu lên đồi).
Sau hai ngày “san định” đồi 1049
(Delta), một Đại Đội của Tiểu Đoàn
2 Nhẩy Dù (ĐĐ/ TĐ2 ND)
thay thế Trinh Sát 2 Nhẩy Dù (TS2ND), chúng tôi có
lệnh di chuyên về hường Bắc để
bắt tay với Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 2
Nhẩy Dù (BCH/TĐ2ND) đang
ở đồi Charlie. Chúng tôi vừa “di hành” vừa
nhổ “đẹp” chốt địch và tống tiễn
hồn Bắc quân khiếp đảm, kinh hoàng bay tung về với
thế giới cô hồn uổng tử. Nhưng
khi đến đồi 1028 (cao độ so với
mặt nước biển) th́ “đụng nặng”.
với một
Trung đội súng nặng của Trung Đoàn 33
thuộc Sư Đoàn 320 CSBV trú pḥng trên đó với ưu thế
hầm hố, địa đạo chiến đấu
đă bố trí vững chắc, sẵn sàng chờ
đợi để “gom bi” TS2ND chúng tôi…với “Thế
Bối Thủy”, tiến thoái lưỡng nan, chỉ c̣n
xông lên vượt đường máu lửa để
sống c̣n, tôi ra lệnh “táp pi”. Súng nổ
vang rền chiến trận. Minh bị
một tràng AK47 xé banh lồng ngực chết tại
chỗ, máu tuôn ướt đẫm thân xác.
Tôi mệt lă
chập chờn trong giấc ngủ dật dờ, bàn tay
trái vẫn c̣n trên cái poncho bó xác của Minh lạnh giá, chợt tai nghe tiếng nói của
Minh từ một cơi âm ty thâm u
xa xăm nào đó mang âm
hưởng tỉ tê năo nuột rờn rợn ớn
lạnh toàn thân…!
- Đại Úy
ơi…! Mở ba lô của em ra, lấy cái poncholight của
em mà đắp và giữ nó bên ḿnh. Mở cái poncho của em
ra lấy cái thẻ bài gửi cho Mẹ em và con Nguyệt
(em gái của Minh), c̣n sợi dây chuyền có cái thẻ ngà
bằng nanh heo rừng Đại Úy hăy mang vào cổ
đừng bao giờ rời nó....”…
Tôi
choàng tỉnh ngồi bật dậy. Trời hăy c̣n
tối đen như mực, chỉ nghe tiếng xào xạc
của lá cây rừng cùng tiếng văng vẳng đâu
đây của Minh như chưa tan loăng hết trong không gian
u uất linh hồn phất phơ đầu cây ngọn
cỏ c̣n ướt đẫm sương đêm! Nh́n quanh
bên cạnh vài thước, Y
Khương vẫn c̣n gh́m súng trong phiên gác nửa đêm
về sáng…Tôi tự lự: có thật linh hồn của
Minh vẫn c̣n lẫn khuất quanh đây, em về báo
mộng cho tôi, hay chỉ là hư ảo qua t́nh cảm
tiếc thương đứa em cận kề thâm t́nh
bấy lâu nay mà sinh chuyện mộng mị giữa
đời thường, trong
khi áp lực địch quân trùng điệp với
lưới thép lửa đạn
dầy dặc vẫn c̣n vây kín tứ phương và cho dù có tin hay không tin cũng phải chờ
cho đến khi trời sáng
có L19 (Phi cơ Quan sát) bao vùng
và mong là sẽ có C&C của Lữ Đoàn bay trên không
phận để liên lạc với tôi. Tôi làm theo lời
báo mộng của Minh, tḥ tay lục ba lô và mở poncho gói
xác Minh… quả thật đúng như vậy và tôi làm
đúng những ǵ Minh căn dặn là t́m thấy
được: một pocholight, sợi dây chuyền có cái
nanh heo rừng khắc Phạn Ngữ Chú Nguyện theo
phương pháp bùa Miên mà các vị “Lục Khủ”
(Thầy) phúc tụng, tom phép hộ thân vào Katha…
Suốt ngày hôm
đó trực thăng của Phi Đoàn 229 không tiếp tế,
tản thương được, đến buổi
chiều chỉ có chiếc LOH của John Paul Van rà xuống
đạp vội vài thùng lựu đạn, đạn
đại liên và vài chục ống đạn 155 ly
chứa nước uống. Hơn hai mươi
thương binh và 12 xác chết vẫn c̣n nguyên đó! Tôi
nhận được công điên từ hậu cứ Long
B́nh của Trung Úy Tài, nguyên văn:
“Kính đích thân ! Sáng nay mẹ và em gái của TS I
Nguyễn văn Minh có đến văn pḥng hậu cứ
khóc lóc thảm thiết và chất vấn tôi về t́nh
trạng Minh đă tử trận. Tôi quá
đổi ngạc nhiên v́ chưa nhận được
một báo cáo hành quân nào cả. Chỉ biết là
đơn vị đang đụng nặng và chờ tin
tức mà thôi. Tôi hỏi th́ bà trả lời rằng: “…
thằng
Minh đă chết và đă có về báo mộng cho tôi đêm
qua …”… Đọc công
điện từ hậu cứ, tôi giao động thân tâm
thẩn thờ như kẻ mất hồn! Đă có báo cáo tổn thất
tổng quát cho Lữ Đoàn nhưng chưa có chi tiết
tên họ tử sĩ và thương binh, v́ người
thay thế cho Minh phụ trách công điện chưa thành
thạo công việc truyền tin liên lạc báo cáo… vả
lại Trinh Sát 2ND chúng tôi c̣n trong ṿng chiến trận
bị Bắc quân vây hăm với hoả lực hùng hậu tứ
bề thọ địch.
Để
độc giả có thể h́nh dung được bối
cảnh lâm trận của Trinh Sát 2ND và tương quan
lực lượng với địch quân trên Mặt
Trận Tây Nguyên – Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 , tôi xin trích dẫn đoạn văn
của tác giả Vương
Hồng Anh là Nhà Văn Quân Đội đă dầy công biên
soạn Quân Sử của Quân Lực Việt Nam Cộng
Hoà, đă có đề cập đến Đơn Vị
TS2ND trong trận thư hùng khốc liệt với Bắc
quân:
“Lữ Đoàn 2
Nhẩy Dù Tử Chiến Tại Vùng Đồi Delta,
Charlie”:
“Trận chiến giữa Trinh sát
2 Nhảy Dù và Cộng Quân ở đồi Delta:
Đồi Delta là
một ngọn đồi nằm về hướng Nam
Charlie, quanh khu vực này Cộng quân đă bố trí 1
tiểu đoàn pḥng không được bảo vệ
bởi các cụm chốt do 1 đơn vị sư
đoàn 320 CSBV phụ trách. Để giải tỏa áp
lực của CQ, Đại tá Trần Quốc
Lịch-Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy
Dù đă cho lệnh đại đội 2 Trinh Sát do Trung úy
Trương Văn Út chỉ huy đổ quân ngay trên
đầu địch. Cuộc đột kích diễn ra
vào rạng sáng ngày 17 tháng 3/1972 bằng trực thăng
vận.
Sau khi Pháo binh và Không
quân hỏa tập để dọn băi đáp, đoàn
trực thăng đổ Đại đội Trinh Sát vào
đỉnh đồi. Vừa nhảy xuống mục
tiêu, toàn đại đội tràn lên tấn công. Bị
tấn kích bất ngờ, cụm tiền đồn
của CQ không kịp phản ứng, đă bị triệt
hạ. Nguyên cả toán tiền đồn
của Tiểu đoàn 1/Trung đoàn 3/sư đoàn 320 CSBV bị
bắt sống. Tuy nhiên, ngày hôm sau, Cộng quân đă
điều động 1 tiểu đoàn để bao vây
đại đội Trinh Sát. Dù bị áp đảo về
quân số, nhưng Trung úy Út (ám danh dùng để liên
lạc qua máy truyền tin là Út Bạch Lan)
đă linh động t́m cách thức đánh trả. Út
Bạch Lan cho phân tán đại
đội và lưu động tác xạ để đánh
lạc hướng phán đoán của đối
phương. Cộng quân tràn lên xung phong nhưng chỉ gặp
từng toán nhỏ, các toán này đă nhanh nhẹn lẫn
tránh sau khi đă bấm ḿm claymore. Địch quân lại
tiếp tục bao vây, không ngờ rằng Đại
đội Trinh Sát 2 đă ṿng ra phía sau tấn công ngay vào
Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn Cộng quân và bắt
trọn cả bộ phận này, trong đó có cả
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/ Trung đoàn
3 CSBV là Trương Hà.
Bị tổn
thất nặng, ngay sau đó, trung đoàn 3 CSBV điều
động toàn bộ lực lượng bao vây đồi
Delta với quyết tâm triệt hạ đại
đội Trinh Sát 2 để trả thù cho Tiểu đoàn
1 của Trung đoàn này. Vào lúc này, Đại đội
Trinh Sát cũng đă mệt mỏi do phải lưu
động để tránh địch. Bị một trung
đoàn CQ bao vây, mặc dù đă áp dụng chiến thuật
phân tán mỏng để cố thủ nhưng do
đạn dược và lương thực gần
cạn, nên đại đội Trinh Sát 2 ở trong t́nh
trạng nguy kịch. Nhận được khẩn báo
của Út Bạch Lan, các phi công VN của phi đoàn Trực
thăng Bạch Tượng đă dũng cảm bay vào vùng
đồi Delta nhưng không thể nào tiếp tế
được cho Đại đội Trinh sát 2 Nhảy
Dù. Cuối cùng, nhờ một phi công kinh nghiệm và gan ĺ
của phi đoàn Song Chùy đă điều khiển
trực thăng lách qua các ổ pḥng không của
địch mới tiếp tế cho đại đội
này được một chuyến duy nhất.
* Tiểu đoàn 2
Nhảy Dù nhập trận:
Ngày 20 tháng 3/1972,
Bộ Chỉ huy Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đă
điều động tiểu đoàn 2 Nhảy Dù từ
Căn cứ Charlie đến giải vây cho đại
đội Trinh sát 2. Ngay khi vào khu vực hành quân, Thiếu
tá Lê Văn Mạnh- Tiểu đoàn trưởng đă
điều động 4 đại đội tác chiến
của tiểu đoàn tấn công ngang hông. Trận
chiến đă diễn ra khốc liệt, sau 3 ngày kịch
chiến, từ ngoài đánh vào, từ trong tấn công ra,
tiểu đoàn 2 Nhảy Dù và đại đội Trinh Sát
2 đă đánh bại Trung đoàn 3 CSBV, “xé” Trung đoàn này
thành từng phần nhỏ. Sau đó, Đại
đội Trinh Sát 2 được trực thăng bốc
về Vơ Định để tái chỉnh trang và bổ
sung quân số. Được báo tin về chiến
thắng của đại đội Trinh Sát 2 Nhảy Dù,
Trung tướng Ngô Du đă bay đến nơi quan sát,
vị Tư lệnh Quân đoàn 2 đă đích thân gắn
cấp bậc Đại úy cùng Đệ Ngũ
Đẳng Bảo Quốc Huân Chương cho Đại
Đội Trưởng Trương văn Út. Ngoài ra,
Đại tá Lê Đức Đạt - Tư lệnh Sư
đoàn 22 Bộ Binh đă thưởng cho Đại
đội này 1 triệu 200 ngàn đồng về chiến
tích bắt sống 12 tù binh của Sư đoàn 320 CSBV”.(ngưng trích).
Và trích dẫn bài
viết “Charlie Ngọn Đồi Quyết Tử” của
Nhà Văn Quân Đội Mũ Đỏ Nguyễn văn
Lập, đăng trên báo Chiến Sĩ Cộng Hoà số
2, xuất bản tháng 8 năm 2009 do Hệ Thống Báo
SàiG̣n Nhỏ phát hành:
“Từ ngày này trở về sau, toàn
bộ Charlie bị pháo kích thật nặng, mổi ngày
cở ngàn quả mà nhiều nhất là 130 ly, rồi
đến đại bác 122 ly, và cả hỏa tiển 122
ly mà tôi nghe được tiếng hú. 310 báo
lên Thiếu Tá Lạc tụi tôi bị ăn 130 ly, ngoài
tầm không phản pháo được, chẳng lẽ
phải nằm đây lănh pháo? Lúc này Đại Tá
Trần Quốc Lịch, Lữ đoàn trưởng Lữ
Đoàn II Dù ở Căn cứ Vơ Định cũng đă
tŕnh lên cấp trên xin cho 11 Dù rút ra ngoài căn cứ,
Nhảy Dù mà nằm đưa đầu ra lănh pháo như
thế này th́ phản chiến thuật quá. Nhưng Trung
Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn II vẫn
lặng thinh, và Cố Vấn John Paul Van chẳng biết
mẹ ǵ Chiến thuật và Pháo binh, vẫn kiên tŕ áp
lực...tử thủ, chắc là định dùng 11 Dù
nhử cho địch lên tapi như trường hợp
của Đại Đội 2 Trinh Sát Dù dưới
sự chỉ huy của Đại Uư Trương Văn Út
(danh hiệu truyền tin Út Bạch Lan) đă
được trực thăng vận nhẩy xuống
trấn thủ ngọn đồi 1069 ở Mặt
Trận Tây Nguyên 1972. Nhận biết được tin quân
Việt Cộng sẽ cường tập tấn công ngay
trong đêm để tận diệt TS2ND , viên cố
vấn Mỹ của Đại Đội là Trung Uư Buda
đă gọi liên lạc xin với Cố Vấn Trưởng Quân Đoàn 2, Mr Paul
Van và Tướng Ngô Du Tư Lệnh Quân Đoàn II , xử
dụng toàn bộ hoả
lực phi pháo, hải pháo Việt - Mỹ để yểm
trợ cho TS2ND dứt
điểm giết chết cả Trung Đoàn Pḥng
Không thuộc Sư Đoàn Thép 320 lừng danh của
Bắc Việt, Cộng quân phơi xác vương vải
khắp cả ngọn đồi 1069… Với chiến
thắng lẩy lừng quân sử nầy tướng Ngô
Du đă đặt tên cho đồi 1069 là “Đồi Út Bạch Lan”. Và v́ trận này mà Bộ Chỉ
Huy Quân Sự Việt Cộng đă lên án tử h́nh
Đại Úy Trương Văn Út, Đại đội
Trưởng Trinh Sát 2 Dù và thề tiêu diệt đại
đội này. Quân đoàn II c̣n lệnh cho
TĐ11 ND ra hố pháo t́m chứng tích của đầu
nổ 130 ly mới cho B52 dập. Quân
đoàn cũng chẳng màng gần một phần ba quân
số 11 Dù bị loại ra ngoài ṿng chiến v́ đạn
pháo và chưa đươc di tản. Cái hào quang
chiến thắng của thượng cấp ngoài binh
chủng đo bằng máu của Dù thật quá đắt,
và quả thật nếu không bị pháo kích từng phút
một, chúng tôi có thể ra hố đạn đo
hướng bắn và bới t́m đầu nổ, nhưng
làm sao gửi ra cho các bộ óc đặc sệt chỉ
thị đây. Hằng trăm thương binh, mấy
chục binh sỉ tử thương v́ pháo c̣n chưa di
tản được nằm đầy các giao thông hào,
không có chiếc trực thăng tản thương nào vào
được cách C2 500 mét th́ nói ǵ đáp xuống tải
thương hoặc tiếp tế. Chỉ có
một pass B52 đánh về hướng Nam gần Charlie
th́ nhằm nḥ ǵ, pháo của chúng đặt về
hướng Tây và Tây Bắc cách Charlie ít nhất 15
đến 20 cây số th́ không dập. Mổi lần
bị pháo kích xong, phi cơ lên vùng, pháo địch im, phi
cơ bay ra khỏi vùng, lại bị pháo tiếp, tôi
chỉ c̣n biết ước lượng vị trí pháo
địch gửi về các pháo đội tùy nghi phản
pháo nếu có thể. T́nh h́nh hết sức khẩn
trương, nếu không có lệnh rút, chắn chết
hết v́ pháo”. (ngưng trích)
…Tiếp
theo
chuyện của Minh: Tôi hỏi Sơn Nhung, Hạ Sĩ
Nhất người Miên bên cạnh tôi với Minh về
sợi dây chuyền và cái nanh heo rừng. Sơn Nhung nói:
- Thưa
Đại Úy đây là cái thẻ “Bùa Miên”. Trên cái thẻ ngà
màu trắng đục có khắc một hàng chữ Miên màu
đỏ, nó là câu thần chú để khi gặp cơn
nguy biến th́ đọc lên.may ra có ứng nghiệm, em
không hiểu câu thần chú là ǵ, nhưng Đại Úy có
thể đọc khi hữu sự “Nam Mô Đại Từ
Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Bạch Y Quan
Thế Âm Bồ Tát “. Thằng Minh nó sống
khôn chết thiêng, nó đang phù trợ cho Đại Úy
đó!”
Tôi
không biết có nên tin hay không? Nhưng thuở c̣n học trung
học, tôi thích nhất môn H́nh học Không gian, trong đó có
chiều thứ ba, ngoài không gian và thời gian. Sau này khi ra hải ngoại đọc bộ sách
của Giáo Sư Linh Mục Lương Kim Định
mới hiểu chút chút ngôn từ “Chiều Kích Tâm Linh”.
Giờ nhớ lại mới thấy thấm
thía.
Sau khi đơn
vị (TS2ND) được bốc về căn cứ Vơ
Định (BCH/ LĐ2ND) tôi được lệnh bay cùng
Đại Úy Phạm Công Cẩn, C&C Trưởng Pḥng
Hành Quân Phi Đoàn 229 (K21 ĐL) để liên lạc với
Đại Tá Lê Đức Đạt, Tư Lệnh Sư
Đoàn 22BB v́ Quân Đoàn cho biết ĐT Đạt
vẫn c̣n liên lạc qua hệ thống Rescue Radio của Hoa Kỳ. Tôi lên
trực thăng bay với
một Trung Úy Tác Chiến Điện Tử của SĐND
và phi hành đoàn.
Trực thăng
cất cánh 30 giây, vừa lên cao độ khoảng 100
bộ th́ bị pḥng không của địch bắn vào hông
tàu đă rách bươm lỗ đạn. chiếc
gunship bay bên cánh trái bị
bắn nổ tung như một khối cầu lửa trên
không, chiếc bên phải nghiêng ḿnh lách về hướng
Đông để cố vượt lưới đạn
pḥng không như thiên la địa vơng giăng mắc tử
thần.
Cẩn gọi tôi
như hét trên headset:
-Thắt dây
nịt cho thật chặt !
Tôi vội vàng
chụp lấy dây Bell an toàn cài khoá,
Cẩn bậm môi, tay trái đẩy hạ cần
Collective lái chiếc C&C lao xuống sát mặt
đường QL14 và hướng về Tân Cảnh…Người xạ thủ đại liên bên phải đă chết gục
đầu xuống cây M60 tự khi nào, co pilot ngồi
ở ghế trên gục đầu bất tỉnh nhân sự,
Trung Úy TCĐT bị một viên đạn 12ly 7 vào chân
phải gẫy lặt ĺa...!
Tôi hồn phi phách
tán, vô thức tḥ
tay vào ngực ṃ t́m cái bùa nanh heo rừng của Minh đang mang theo và
miệng lẩm bẩm “cầu Kinh”.
Tàu vừa mới tới vùng
trời Tân Cảnh, th́ ôi thôi lại thêm một trận kinh
hoàng: phía dưới là
hằng chục chiến xa T54 VC đang tùng thiết trên
đường Quốc Lộ 14 xuôi
Phạm Công Cẩn lại cắn
chặt môi, bàn tay trái kéo cần Collective lấy cao
độ và vận tốc, tay phải điều
khiển Controller đưa tàu lướt tới rồi
cho con tàu quẹo thật gắt về phía Đông.
Chiếc trực thăng nghiêng bẻ góc, gầm rú dữ
dội, tiếng cánh quạt xé gió phành phạch
tưởng chừng như vỡ tung
thân tàu! Tôi thấy vẻ mặt Anh
đanh lên khẩn thiết, cương nghị,
dưới Helmet khuôn mặt mồ hôi nhỏ giọt
nhễ nhại…Nhưng phối hợp thao tác tinh xảo
với hai chân đạp nhịp nhàng trên pedal và tay trái kéo lên, hạ xuống
cần Collective, tay phải điều khiển cần
Controller lên xuống , trái phải để lái con tàu bay lên
cao, rớt xuống thấp, lắt léo qua lại như
chiếc lá rơi chao lượn trong cơn băo để
cố vượt tránh thoát những tràng đạn của
địch bắn lên từ dưới đất. Con tàu
hoạt động tối đa công xuất, tiếng
động cơ nổ vang rền liên thanh như gầm
rú dữ dội lạ thường. Thân tàu chuyển
động run lên bần bật với tiếng kêu răng
rắc như muốn vỡ bung ra từng mảnh, tiếng
cánh quạt chém xé gió phành phạch
xen lẫn tiếng súng và đạn pḥng không nổ
long trời, chớp nhoáng sấm sét lấp loáng không gian, thần chết ẩn hiện chờ cơ
hội thu đoạt lấy linh hồn người
chết trận oan nghiệt khuất uất.
Chu Công Cẩn” của Tam Quốc Chí tân thời
lại phải hạ cần lái một lần nữa cho
con tàu hạ cao độ bay là là xuống thung lũng, men
theo khe suối cố lết cánh quạt về tới Vơ
Định. (Sau nầy t́m hiểu thêm, tôi mới
được biết kỹ
thuật bay trực thăng như chiếc lá rơi
để tránh đạn đạo là phát minh từ tài
nghệ thao luyện tinh xảo có một không hai trên
thế giới, do cố Thiếu Tướng Nguyễn Huy
Ánh - Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Không Quân, khi Ông hăy c̣n
là Phi Công với chức vụ Thiếu Tá
Phi Đoàn Trưởng - Phi Đoàn 211 Trực Thăng.
“Kỹ Thuật Bay Lá Rơi “ được phát huy và
huấn luyện cho những Phi Công tài hoa tinh nhuệ và gan
dạ những “Nam Nhi Chinh Chiến Kỹ Nhân Hồi” là
Kinh Kha thế hệ của Không Lực Việt Nam Cộng
Hoà đă viết lên trang
sử Anh Hùng Bảo Quốc Trấn Không suốt 21 năm
cuộc chiến Quốc - Cộng…
Khi cất cánh tung
hoành trên những trần mây xanh thẳm, hay ráng chiều tim
tím hoàng hôn cũng chiếu sáng bởi con tàu bị trúng
đạn pḥng không bùng nổ cháy đỏ rực như
khối cầu lửa trong không gian dung chứa biết bao
t́nh…! Phái Bộ Quân Sự Mỹ cũng đă
cử Chuyên Gia Huấn Luyện Kỹ
Trực thăng
vừa đáp vội vàng ở căn cứ Vơ Định,
“Công Cẩn” hỏi tôi:
-Mi có sao không ?
-Dạ không, ...nhờ có bùa hộ mạng!
Và
cười trừ.
Tôi nghĩ tới
Minh trong những giây phút thập tử nhất sinh vừa
qua, em có bên cạnh anh với máy PRC25 nặng ch́nh chịch
trên lưng của em hay không, hay em đang ở một cơi
trời vô sắc nào đó không có không gian cũng không có
thời gian,em đă vào hư vô hay
vẫn hiện hữu bên anh…?
Hai tuần lễ
sau đó, Lữ Đoàn II ND triệt thoái Komtum không vận
về Sài G̣n bổ sung quân số, quân trang, quân dụng,
đạn dược, vũ khí… trong khi An Lộc đang
ngập ch́m trong biển lửa, Đông Hà, Quảng Trị
thất thủ. Cộng quân nă đại pháo bắn
giết tan tành dân lành vô tội tháo chạy giặc, t́m sinh lộ lánh
nạn trên “đại
lộ kinh hoàng”, đường lui quân xuôi Nam
của gần hai trăm ngàn dân (200.000) và hai mươi ngàn
lính (20.000) đang tháo chạy về phía Nam trong Chiến Dịch Xuân Hè 1972 của
Quân Đội Nhân Dân (VC)…
Sau chiến trận, công binh đă phải
xử dụng xe
cày đào huyệt mộ để chôn cất hàng ngàn xác
người đang dần phân huỷ…Thảm cảnh địa ngục môn có thật giữa đời
thường trần gian đầy máu và nước
mắt của quân dân tỉnh địa đầu
giới tuyến…!
Ôi vùng Trị Thiên, An Lộc, vùng Tam Biên, lửa máu từ rừng
sâu ngụt trời. Ḍng máu đỏ da vàng, trên
đất nghèo nàn đă đổ v́ ai. Ḱa
giặc thù đốt phá quê hương ta. Ḱa giặc thù
bắn giết đồng bào ta…!!!
Để gọi
đích danh chúng: “bọn đồ tể Việt Cộng”:
Giặc từ
miền Bắc vô đây, bàn tay dính máu
đồng bào. Giặc từ miền Bắc vô
đây, bàn tay vấy máu anh em. Giặc
từ miền Bắc vô đây, bàn tay
chiến tích hận thù. Giặc từ miền Bắc
vô đây, bàn tay giết chóc hôi tanh.
Lợi dụng
mấy ngày ở hậu cứ, tôi cùng Trung Úy Tài, Chỉ Huy
Hậu Cứ, Thượng Sĩ Nhất Tá Thường
Vụ, Thượng Sĩ Nhất Chiến HSQ Tiếp
Liệu đến Nghĩa Trang Quân Đội
để viếng mộ
của Minh. Ngôi mộ chắc chỉ
mới được lấp đất vài ba hôm trông
thảm hại! Đứng
trước mộ của Minh, tôi
thầm khấn vái: “Em sống khôn, nay chết có linh
thiêng xin phù trợ cho tất cả anh em được tai
qua nạn khỏi “…!
Buổi chiều
cùng ngày tôi với các Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ
trong đơn vị “làm” cạn láng 5 thùng Remy Martell
của toán Cố Vấn Mỹ mua tặng…Rượu
hết, tàn tiệc, tôi say chếnh choáng, thần trí lờ
mờ, chân bước loạng choạng ngă nghiêng
t́m giường và ngáy kḥ kḥ ch́m vào giấc ngủ say
khước…Bỗng tai lại nghe văng vẳng đâu
đây âm thanh quen thuộc trên máy PRC25 khi trời vừa
sáng:
-Đại Úy
ơi...nhớ
ngày mai ra thăm em lần nữa… và nhớ ghi
cho kỹ số mả của em để mua vé số.
Tôi choàng tỉnh
giấc và có cảm giác như linh hồn của Minh c̣n dang
lăng văng quanh đây…và tôi tin có thật Minh đă ở bên
cạnh phù hộ
thân cho tôi và anh em trong đơn vị đă thoát
qua hai cơn hiểm nghèo, một ở phía Tây Charlie,
một ở Chupao… cũng bởi nhờ vào kỷ vật
nanh heo rừng có khắc Phạn ngữ chú nguyện cho người hữu duyên của Minh báo mộng “trao” lại.
Trong buổi
họp bỏ túi sáng hôm sau, bên tách cà phê đang bốc khói
ở Câu Lạc Bộ TS 2ND, tôi đem câu chuyện Minh báo
mộng đêm qua tâm sự với tất cả Sĩ Quan
trong đơn vị và họ đề nghị:
- Th́ ḿnh cứ làm
thử xem, cầu may mà, có tốn kém ǵ đâu…”! Sau đó ai muốn
đóng góp bao nhiêu tiền tùy hỉ, giao cho HSQ kế toán làm
sổ sách, tổng cộng được trên mười
ngàn đồng để mua vé số.!
Tôi
với Trung Úy Tài, SQ Hậu Cứ đến Nghĩa Trang
Quân Đội vào lúc buổi trưa. Mộ của Minh
vẫn chưa có bia, chỉ có tên họ
số quân đơn vị viết nguệch ngoạc trên
tấm gỗ cắm trước mồ, không có số
mộ…!
Trung Úy Tài vào văn
pḥng của Đại Đội Chung Sự mới t́m ra
đưọc danh số mộ bia là:
198264. Tôi tính nhẫm cộng lại thành ra số “bù” (10
nút)…Nhớ trước đây khi Minh c̣n sống, em luôn luôn
chọn danh số liên lạc truyền tin cho tôi lúc nào
cũng chín nút chẳng hạn như: 81, 72, 63...hay 531, 405 và các Sĩ Quan
Trung Đội Trưởng cũng tương tự
như vậy. Nay em đă mất, mộ bia
của em lại mang con số “bù”. Ngẫm tạo hoá
cũng khéo trêu người! Tôi hỏi:
-Anh
Tài ...anh nghĩ sao?
- Đă nói là
“cầu may “ mà Đại úy.
Trên
đường trở về doanh trại, những ư
nghĩ lung tung cứ vẫn vơ trong đầu, tôi
cố lắc đầu mấy cái để xô
đuổi những thứ vẫn vơ “bù” với “chín
nút” đó đi… trong khi c̣n bao nhiêu việc chuẩn bị
để hai ngày nữa lên đường đem quân ra
Huế rồi vào Quảng Trị với những tin
tức chiến trường mỗi ngày càng tăng thêm
khốc liệt…Nhưng sáu con số 198264 vẫn y cứ quanh quẩn trong
trí óc của tôi như một
nỗi ám ảnh bâng quơ nào đó mà lại khó phai mờ hay bỏ quên
theo ngày lại qua ngày . Tôi tự nhũ thầm hăy quên nó
đi để c̣n lo bao nhiêu công việc chuẩn bị lên
đường ra Quảng Trị. Buổi chiều
trước khi về căn nhà trong khu gia binh nằm
dưới lưng chừng đồi Long B́nh, tôi căn
dặn Trung Úy Tài:
- Anh bảo
Thượng Sĩ Dự (kế toán trưởng) giao
số tiền đó cho Anh để đi mua vé số…và
phải nhớ cho kỹ...t́m cho bằng được lô
có bốn số đầu 1982, c̣n hai số sau, số nào
cũng được nhưng cộng lại phải là
con số bù… Đừng mua một lần mà phải t́m mua
nhiều lần cho đến khi hết mười hai ngàn th́ thôi…!
Đường vào
Cổ Thành Đinh Công Tráng - Quảng Trị:
Từ
ngă ba Long Hưng, cửa ngơ vào thành phố Quảng Trị
đến làng Tri Bưu phía chính Đông của cổ thành
chỉ non một cây số. Tiểu Đoàn 11 ND đă áp sát nhà
thờ La Vang từ phía Nam, TĐ7ND đă vào tới Long
Hưng, nhưng chậm bước v́ sức kháng cự
của địch quân quá mănh liệt, TĐ5ND bên cạnh
sườn phải của TĐ7ND về phía Đông và
chỉa mũi dùi thẳng vào Tri Bưu theo trục Nam -
Bắc. Trinh Sát 2 Nhẩy Dù (TS2ND) được thiết
vận xa “cơng” ra gần bờ biển, mượn
đường Thuỷ Quân Lục Chiến (TQLC) đâm
thẳng vào Tri Bưu theo trục Đông-Tây cho đến
khi bắt tay được với Tiểu Đoàn.
Từ Tri Bưu
đến chân tường cổ thành chỉ có vài trăm
thước mà chúng tôi TĐ5ND và TS2ND có cảm tưởng như
Cửu Niên Đạo, trên con đường chín năm này
chúng tôi không biết cũng không nhớ, làm sao mà đếm
để mà biết mà nhớ, có bao nhiêu đồng
đội của chúng tôi lên thiên đàng hay xuống
địa ngục hay chưa siêu thoát vẫn c̣n lỡn
vỡn quanh đây? Tôi và Thiếu Úy Khâm là tiền sát viên của TĐ1PBND
đang đứng trước một mộ bia khá lớn
check lại vị trí để điều chỉnh tác
xạ…Bỗng nghe “cắc bùm” một tiếng động
khô khan của CKC bắn tỉa, Thiếu Úy Khâm bật
ngửa tay chân giựt giựt vài cái, mắt trợn
trừng! Tôi ngồi thụp xuống tấm mộ bia
bằng xi măng, phía sau có ai đó với bàn tay hộ pháp
nắm giây ba chạc của tôi giật mạnh, tôi bật
ngă mạnh ra phía sau cùng lúc tiếng nổ ầm
trước mặt, một quả không giật trúng ngay
mộ bia, tôi ngất đi không c̣n biết ǵ nữa!
Nửa giờ sau tôi lay tỉnh, tâm trí mù
mờ, nghe thoang thoảng tiếng của Sơn Nhung
mừng rỡ cười nói bên tai:
- Đại Úy
tỉnh lại rồi!
Đại Úy tỉnh rồi… anh Được
ơi…!!!
Được
là Trung Sĩ Nhất, Y tá của Tiểu Đ̣an QY/SDND
biệt phái cho TS2ND.
Được nhào tới bên tôi,
trong khi tôi vẫn c̣n nghe tiếng M16, M60, M79 vang rền chung quanh.
- Không sao đâu
Đại Úy. May nhờ cái mộ bia, không bị vết
thương nào, chỉ tức thở một chút thôi, tôi
đă làm hô hấp rồi, Đại Úy có cần tản thương
th́ tôi đưa đi ngay, v́ tôi đă gửi công
điện báo cáo rồi.
- Không sao đâu, cám
ơn cậu, đỡ tôi ngồi dậy đi.
Tôi vung tay, vung chân cố ḅ qua máy truyền tin liên
lạc với Tố Quyên (Thiếu Tá Bùi Quyền) và Bộ
Chỉ Huy LD2ND để báo cáo rằng tôi vô sự
để cấp trên yên tâm. Tôi hỏi Sơn Nhung:
- Lúc năy cậu
nắm giây ba chạc giật tôi ngă ngửa ra sau có phải
không ?
- Dạ không, …lúc
đó em đang nằm bẹp bên phải cạnh
Đại Úy, nó bắn rát quá, em th́ hết đạn nên
nằm im ĺm cúi đầu chịu trận, thằng Bi ôm
cây đại liên không dám xài phí, chỉ chực chờ nó
tràn tới th́ thằng Bi đứng xổng lên quạt vài
tràng rồi ngồi thụp xuống ẩn núp…chớ …. em
không có ở đằng sau lưng Đại Úy hồi nào
đâu, chỉ có thằng Chỉnh mang máy, nhưng nó đang
núp phía sau một mộ bia khác cùng với thằng mang máy
Pháo Binh.
Như
vậy, th́ tôi đă hiểu và càng tin mănh liệt thêm về
cái “bùa Miên” của Minh mà tôi đang đeo trên ngực.
Hai
Biệt Đội 81Biệt Cách Dù (BĐ81BCD) thay thế
TS2ND.
Chúng tôi lui ra phía sau giữ “Bến Đ̣ Đưa Xác”
ở sông Nhung (sông Vĩnh Điện) trong khi quân số c̣n
không quá 40 nhân mạng. Bây giờ đến phiên Trinh Sát 2ND
khiêng poncho, cơng thương binh của TĐ5ND và 81 Biệt
Cách Dù để chất lên Thiết Vận Xa M113 cách đó
gần 500 mét… Cho đến gần hai
tuần lễ sau mới có lệnh TQLC thay thế toàn
bộ lực ND và 81BCD. Chúng tôi TS/2ND được
triệt thoái về phía
Tôi nhận
được công điện của Trung Úy Tài Chỉ huy
Hậu cứ báo: “Ngày mai tôi sẽ có mặt hành quân. Có vài điều cần tŕnh với đích thân.
Tài”.
Sau đó Tài theo chuyến bay tiếp tế ra chỗ hành
quân gặp tôi và tŕnh báo:
- Anh-Em ḿnh đă
trúng lô độc đắc một triệu đồng
đúng con số ở bia mả
thằng Minh…!!!
Tài vừa tŕnh bày
chi tiết vừa mếu máo, nào là phải mất bao nhiêu
ngày lùng sục khắp các chợ Biên Ḥa, Thủ
Đức, Sài G̣n, Chợ Lớn, Gia Định…để
mua cho bằng được vé số đúng sáu con số
ghi trên bia mộ của Minh như em đă báo mộng cho
tôi….và: “Phải mua liên tiếp cả lô cho tới tuần lễ thứ ba,
mới nghe radio phát thanh số trúng độc đắc
1.000.000$” … xong chạy ḷng ṿng
sân trại như người điên hét lên “ḿnh trúng số
rồi, chúng ḿnh trúng số độc đắc rồi ha
… ha...ha…”
Tôi rót
một ly Remy Martell cho Tài.
-
Uống đi Tài... để rồi ḿnh tính chuyện sau.
Tôi suy
nghĩ phải làm ǵ đây với số tiền một
triệu đồng trúng số? Con số chính xác theo “lời nói” của Minh đă báo mộng.
Số trúng độc đắc một triệu
đồng năm 1972 ngay trong Mùa Hè Đỏ Lửa, hay
số phận của Minh cùng sự hẩm hiu của bà
mẹ già với đứa em gái tuổi c̣n thơ dại?
Tôi quyết định ngay:
- Ngày mai trở
về hậu cứ, anh Tài t́m đến nhà Mẹ của
Minh và cứ giao hết số tiền này cho bà
cụ…với lời nhắn của tôi là xây mộ
phần cho Minh khang trang…!
Tài làm
y như lời tôi yêu cầu. Mẹ và em gái
của Minh rất xúc động.
Nhưng bà cụ không nhận
tất cả số tiền mặt mà chỉ xin cho một
trăm ngàn (100.000$) để sang lại một cái sập
nhỏ ở chợ Trương Minh Giảng để bán
bún Suông sinh sống, số c̣n lại 900.000$ xin giúp cho những gia đ́nh
tử sĩ cùng tử trận với Minh ngày hôm đó
ở đồi Delta-Kontum…
Nài nĩ
cách nào Bà cũng không nhận. Cuối cùng tôi phải xin
nghỉ phép đặc biệt vài ngày để bay về
Sài G̣n gặp Bà thuyết phục th́ Bà mới nhận
500.000$ để lo phần mộ cho Minh và chi phí cho
Nguyệt là em gái của Minh ăn học khi em mới
vừa tuổi trăng tṛn.
C̣n lại 500.000$,
tôi chia ra để chi giúp cho các quả phụ: Thiếu Úy Thới, Thiếu Úy
Mỗi, Thiếu Úy Oanh mỗi người năm chục
ngàn và chia đều cho 23 gia đ́nh quả phụ khác.
Con người ta
từ đâu tới và khi chết sẽ đi về
đâu…?
Tôi vốn xuất
thân “Vơ Biền”, văn dốt chữ nát, th́ làm sao
để có thể biện luận, giải thích, tŕnh bày
từ u mặc cho chí lư hiển lộ được
hiện tượng, trạng thái, tính chất chân
đế, qui ước chế định là chỉ Danh
để vay mượn tạm mà làm phương tiện
hạn hẹp trong lắm lời ngôn từ vốn thường
tối nghĩa để lư sự chỉ bày nhiều
trường hợp rất giản dị và thường
t́nh mà hạng “thuật sĩ”, triết gia thời
đại, …thường hay lẻo mép dạy
đời…và lại nữa
“th́ làm sao” “thuyết minh” câu chuyện mộng mị của cố
Thượng Sĩ Minh, người Hạ Sĩ Quan Truyền Tin bên cạnh tôi như
h́nh với bóng trong suốt một khoảng thời gian dài
chinh chiến dạn dầy gian khổ, hiểm nguy… có
dư thừa bi thương máu lửa và nước
mắt mà được ít ngắn ngủi niềm vui.
* * *
Hôm nay
đây ở trên xứ Mỹ.
Vào những ngày đầu Nguyên Đán khí trời
ấm ám, gió sớm thoáng thổi nhè nhẹ mang theo tiết
Xuân hây hây vờn những sợi tóc mây phơn phớt trên má cô
gái Xuân th́ e ấp nói cười,
trong nhà, ngoài ngơ sắc Xuân tươi thắm mơn
mỡn hiện nét trên những cành chồi non, hoa Xuân
nở rộ khoe sắc. Chuyện chinh chiến máu lửa
không c̣n nữa, nước mắt đă khô cạn,
nhưng trong tôi vẫn có linh cảm Minh vẫn c̣n “hiện
hữu” bên cạnh tôi với những thăng trầm trong
cuộc sống hoài cố hương nơi xứ lạ,
em luôn phù hộ nâng tôi đứng dậy khi tôi ngă quỵ,
an ủi tôi khi rơi vào nghịch cảnh và có đôi khi thu
thúc lục căn, thân tâm khinh an
lạc bước
dạo chơi vào thế giới quan “Âm cảnh” lư sự
mang mang với Minh nơi cơi “Vô Sắc Giới” hà
phương chi liễu ngộ vốn vô minh mà sinh chấp
hữu vạn pháp giới ...chí đến:
Thuỷ chung tương hoán hà phi xứ
Lai khứ
thường niên hà thị tâm
Vạn hoá
đại toàn ai khá biết!
Cổ lai muôn sự
lư tuỳ trung…
“Cái” tuỳ trung,
hiểu biết như ở trong ḷng bàn tay là ở
những “Bậc Thần Nhân” Đại Trí, Đại
Lược, Đại Dũng, phải chăng cũng là “
đại gạt, đại gian hùng, đại ác
độc” đă thiết kế Chính Trị và dùng
cường quyền đưa đẩy Dân Tộc -
Đất Nước Việt Nam vào chiến sự
khốc liệt suốt cả phần tư thế
kỷ, rồi tháo chạy an toàn về hậu phương
“phớt tĩnh Ăng Lê” (England) mồm loa mép giải
với “danh ngôn” để lại lịch sử mai hậu
soi chơi:” …Trang sử Việtnam đă được
lật (lọng) qua…”…!!!
Thống kê của
“Người Mỹ” đă đưa lên con số 3.000 000
(ba triệu) người Việt đă bị giết trong
cuộc chiến, thống kê của Nhà Nước Việt
Nam (VC) hơn 1,100.000 (một triệu một trăm ngàn)
quân dân Bắc Việt hy sinh và c̣n nữa (Quí Độc
Giả có thể lên Net để xem thống kê). Con số thật nạn nhân
bị Việt bị bom đạn được sản
xuất tận các quốc gia Văn Minh Âu, Mỹ, Liên Xô,
Tàu Cộng..phải nhiều lần
hơn thế. Thế giới đă đồng loă với
tội ác với Việt Cộng. V́ nếu nói thật,
viết thật, công bố thật số nạn nhân Việt
Nam trong cuộc chiến Quốc - Cộng chẳng khác nào
như gián tiếp tố cáo “Tính Nhân Đạo, Trí Thức, Lương Tâm” …của
“người” văn minh Tây Phương trước sự
diệt chủng của Việt Cộng dẫu sao cũng
đă mang đến lợi nhuận cho “họ” rất
nhiều…Người Lính Nhẩy Dù chúng tôi và toàn thể dân
Việt đă phải nhận chịu bao nhiêu triệu
tấn bom đạn đă trút xuống ruộng
vườn, nương rẩy, nhà cửa, mồ mả
gia tiên. Súng đạn từ Nga,Tàu, Khối Sô Viết và
những “quốc gia anh em Cộng Sản” cũng chỉ để
tàn sát dân Việt. Người Việt chúng tôi là
Người đó! Minh là một điển h́nh:
“Người Lính chết trận khi mái tóc c̣n xanh” và:
Một ngày tôi đi
qua
Trại lính ngang nhà
Thấy một lá
cờ
Với
một ṿng hoa.
Hỏi ra:
Mới biết anh
là
Lính trẻ xa nhà
Chết trận
đêm qua !
Chung quanh đây
Có ai đâu…?
Đưa tiễn
anh về
Buồn tiễn anh
về
Với ḷng
đất sâu…!
Đêm
Xuân nơi xứ người, trời khuya lành lạnh. Chạnh nỗi
nhớ quê nhà, tôi thắp lên nén hương thầm tâm sự lênh đênh
với “chúng sanh” Minh:
Ai từ sắc
tướng t́m ta ?
Ai từ âm tiếng
gọi ma cơi ngoài?
Tâm tư của tôi như chuyến
tàu đêm đỗ bến quê nhà, viếng mộ em nay c̣n
hay đă hoang phế tiêu điều mà rợ hoang đă
mọc phủ kín chỗ nằm…?
Minh ơi ! Anh không
có tham vọng là ảo tưởng để “ăn cơm
dưới đất mà nói chuyện trên trời” lấy
“cái” trí tục vật hạn hẹp để bàn
chuyện bao la vô cùng của vô thuỷ, vô chung không không du du
hạt vi trần du phương trôi lăn hà tứ
xứ…chỉ là khúc nôi của trí năo chưa bị lú
lẫn c̣n nhận biết:” phân biệt là Thức, vô phân
biệt là Trí; dựa Thức là Nhiễm, dựa vào Trí là
Tịnh. Nhiễm tất có Sinh Tử; Tịnh chẳng có
Chư Phật”…bước “chân” vào thế giới Chân
Đế nầy Anh phải cởi bỏ kiến thức
cũng như giầy dép để qua ngưỡng cửa
thế gian pháp, tháo mở nút thắt thói tục đă huân
tập, tiêm nhiễm biết bao định kiến, thành
kiến, thường kiến, đoạn kiến …là si mê
bao bọc, đóng chặc nẽo về giác ngộ.
Minh
ơi! …Không gian bao la vô cùng và hằng chuyển…trái
đất “của” chúng ta đang sinh sống đây
“thuở trời đất chưa có cơn gió bụi” nó
như là một tinh cầu than (carbon) chết bay hoài
nhiều tỷ tỷ tỷ năm …và những “hạt” vi
trần năng lượng làm Nhân theo trùng trùng Duyên
khởi mà cấu tạo thành môi sinh để nẩy
nở vật chất là vạn pháp tiến hoá…khởi
thuỷ hành tinh có sự sống nầy không có ngay cả ư
niệm thời gian th́ nói ǵ đến có ngày:” thứ Hai,
thứ Ba, thứ Tư, thứ Nam, thứ Sáu, thứ
Bẩy và Chủ Nhật”.
Sắc
Pháp: thân thể Vật Lư hay Vật Chất luôn biến
đổi theo tính chất vô
thường… là duyên “vay mượn” của hạt năng
lượng trong không gian có sẵn mà cấu thành?
Danh Pháp: là “phần” Tâm Lư” 121 Tâm
Vương, Tâm Sở cũng là Duyên vay mượn từ
33 cơi: Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới,
Siêu Thế Giới… làm: Thọ, Tưởng, Hành, Thức
và là “nơi” chúng sanh “Người” thọ hưởng
tướng trạng hạnh phúc hay đau khổ…?
Đó
cũng là ư nghĩa của bản Kinh Bát Nhă Ba La Mật
Đa Tâm Kinh - Prajna-Paramita
Sutra: “ Ngài Bồ Tát dụng tuệ giác không có ǵ ngăn ngại quán
xét thâm sâu hiện tại, soi thấy ngũ uẩn: Sắc
(h́nh thể vật lư), Danh (tâm lư): Thọ cảm giác
chủ thể chịu ảnh hưởng bởi
đối tượng, Tưởng tác ư đến
đối tượng, Hành hiện tượng tâm lư hay
cảm xúc phát khởi theo sự kích động của
thọ và tưởng, Thức sự hiểu biết
đều không có tự tánh (vô ngă)…nên rốt ráo là giai
không…!
Vậy th́ Minh ơi, sau khi tử cận tâm chấm
dứt thân thể vật chất của em chỉ c̣n là cái
xác vô tri, vô giác đang theo tiến tŕnh huỷ hoại
vật lư…Tâm thức của em ngay lập tức tái sanh theo
nghiệp mới, sanh trở lại trong kiếp sống
kế tiếp, không là người, mà là một “chúng sanh” Ma
trong cơi vô sắc giới c̣n giữ được nguyên trí
giác, tính năng ở tàng thức thứ 8 Alayda…mà như
như quán tính khi c̣n tại thế Minh vẫn miệt mài
gian khổ, vui buồn kinh qua đoạn đường
chiến chinh…? Hay em cũng như bao “chúng sanh” hữu t́nh
ở cơi sắc giới, vô sắc giới do vô minh u… u… mê…
mê lầm tưởng là đời sống ở những
cơi như thế là hạnh phúc vĩnh viễn và tâm tham
được sống, tham ái phát sinh mà thành nhân thức tái
sanh kiếp người tương lai khi có hội
đủ phước báu và nhân duyên?
Thời
Kinh khuya tụng:” Sappe Satta Avera Hontu Sukita Hontu …phúc chúc và hồi
hướng cho em được an lạc, hạnh phúc, tái
sanh nhàn cảnh…”…
Nhưng
em khẳng định:” Em không muốn tái sinh khi bọn
Việt cộng c̣n đang ngự trị trên dân tộc,
đất nước Việt
Khi c̣n sống Minh hiền lành, khôn
ngoan, sau khi chết em linh hiển “Hồn” vẫn c̣n t́nh Huynh Đệ Chi Binh
quyến luyến, thường theo bên đời phù
độ giúp cho anh may mắn thoát khỏi bao hiểm nguy
giăng mắc trên đoạn đường chiến
binh …Tự thân anh biết cũng là quá đủ để
thầm truy điệu tử sĩ và cám ơn em với
tất cả tấm ḷng trĩu nặng ân t́nh:
Nếu cuộc đời là hữu
phùng hữu biệt
Th́ tôi như mây trắng măi ngàn
phương…
Nếu cuộc đời là sầu
đa lạc thiểu
Sao chân cầu c̣n lưu nước
trường giang ?
Ai đă qua sông c̣n ngoảnh vời
cố quận
Thiên lăng xa ải nhạn hướng
đâu t́m…?
(TTA)
Mũ Đỏ Trương
Văn Út (ÚtBạchLan)
Viết xong Mùa Xuân Ất Mùi
2015